Ngày 13/6, tại Hà Nội, Vụ Khoa học Công nghệ và Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT) tổ chức Tọa đàm “Rác thải nhựa trong hoạt động sản xuất nông nghiệp, hiện trạng và thách thức”. Tham dự tọa đàm có các đại biểu từ các Vụ, Tổng cục, Viện, Trường thuộc Bộ NN&PTNT, đại diện Bộ Tài Nguyên và Môi trường (TN&MT) và một số chuyên gia trong ngành.
Theo Vụ Khoa học Công nghệ và Môi trường, hàng năm, thế giới sử dụng tổng cộng 448 triệu tấn nhựa. Trong khi đó, thời gian sử dụng trung bình trước khi bị thải bỏ của bao bì nhựa là thấp nhất – chỉ 6 tháng, so với 35 năm trong công trình xây dựng, 5 năm với hàng dệt may, hay 3 năm với hàng tiêu dùng. Bao bì, vì thế, là nguồn rác thải nhựa lớn nhất, và cũng khó thu hồi, xử lý nhất.
Hiện nay ngành nông nghiệp chưa có thống kế hay nghiên cứu nào về rác thải nhựa trong sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, trong sản xuất, ngành nông nghiệp vẫn đang thải ra môi trường một lượng rác thải nhựa đáng kể, có những loại có thể thu gom để tái chế hoặc tái sử dụng như bao bì, chai lọ… những có những loại nilong mỏng không thể thu gom và tái chế, tái sử dụng được:
Theo ông Nguyễn Đình Thông, đại diện Cục Bảo vệ Thực vật (BVTV), trong trồng trọt thì nguồn rác thải nhựa từ nilong để quây ruộng lúa để chống chuột, thiên địch; túi nilong để bọc quả như trồng ổi, xoài…, bao bì phân bón, thuốc bảo vệ thực vật.
Hiện nay rác thải từ vỏ bao bì phân bón, thuốc bảo vệ thực vật chưa được thu gom và xử lý triệt để. Loại rác thải này được xếp vào danh sách “rác thải nguy hại” và được thu gom, xử lý theo quy định về rác thải nguy hại của Bộ TN&MT. Hàng năm mỗi tỉnh thải ra khoảng từ 50-100 tấn rác thải này. Trong đó, mỗi ha lúa/vụ, nông dân xả thải ra môi trường khoảng 1-1,5kg bao bì, chai lọ đựng thuốc; còn trồng hoa màu, cây công nghiệp thì việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật gấp 2-3 lần trồng lúa.
Tại một số tỉnh như Long An, Đồng Nai… đã tiến hành thu gom và xử lý rác thải này bằng hình thức đem đốt tại các lò đốt chuyên dụng của một số đơn vị được cấp giấy phép xử lý chất thải nguy hại. Tuy nhiên lượng rác được thu gom và xử lý chiếm tỉ lệ rất thấp so với lượng rác xả thải ra và tồn đọng trong đồng ruộng. Ví dụ tỉnh Đồng Nai mới xử lý được 18 tấn trong khi hàng năm xả thải ra khoảng 100 tấn rác thải trên.
Ngoài ra, các tỉnh khác chưa đầu tư công nghệ xử lý thì mới thu gom vào các hố rác và nông dân đốt ở nhiệt độ chỉ vài trăm độ C thì sẽ không phân hủy hết mà thừa lại tàn dư bên ngoài môi trường (nguyên tắc, bao bì, chai lọ thuốc phải được đốt ở nhiệt độ 1.500 độ C mới tiêu hủy hết). Bên cạnh đó, nếu ở ngoài môi trường chất thải nhựa nylon khi đốt sẽ tạo ra khí thải chứa Dioxin và Furan, là những chất kịch độc, tồn tại lại lâu dài trong môi trường, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người. Đặc biệt ở những nơi chưa có bể thu gom chai lọ, bao bì phân bón và thuốc BVTV thì người dân bỏ lại góc ruộng, sau đó trôi nổi ngoài môi trường.
Trong ngành chăn nuôi, rác thải nhựa trong chăn nuôi thải ra từ ống dẫn nước tại hệ thống chuồng trại, hệ thống thu gom nước thải, bao bì đựng thức ăn, chai lọ thuốc thú ý….Chỉ tính riêng trong ngành sữa mỗi năm cũng có khoảng trên 8 tỷ ống hút nhựa được tiêu thụ và thải ra môi trường.
Tại buổi tòa đàm, các đại biểu đã chia sẻ kinh nghiệm, trao đổi những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động quản lý nhà nước về thu gom và xử lý rác thải nhựa cùng định hướng giảm thiểu việc phát sinh rác thải nhựa trong hoạt động sản xuất nông nghiệp.
HNN (mard.gov.vn)