Ở Việt Nam, do những đặc điểm về địa lí và kinh tế – xã hội nên mô hình bệnh tật chủ yếu vẫn là các bệnh nhiễm khuẩn (nhiễm trùng, ký sinh trùng), chiếm khoảng 25% số ca bệnh. Nhu cầu sử dụng nhóm thuốc imidazole để xử lý ký sinh trùng là rất lớn. Tuy nhiên, tất cả các thuốc nhóm này hiện có ở Việt Nam đều là thuốc ngoại nhập ngoại trừ metronidazole. Một trong những nguyên nhân chính là giá nguyên liệu cao so với giá thành phẩm và khó nhập khẩu vì thuốc do một số công ty độc quyền nhập khẩu. Secnidazole và tinidazole hiện là độc quyền của công ty Aventis và một số công ty của Ấn độ. Điều này dẫn đến sự phụ thuộc vào nguyên liệu nhập ngoại và góp phần quan trọng vào sự mất ổn định giá thuốc như trong giai đoạn vừa qua.

Trong khuôn khổ của “Chương trình nghiên cứu khoa học công nghệ trọng điểm quốc gia phát triển công nghiệp hóa đến năm 2020”, nhóm nghiên cứu tại Viện Hóa học công nghiệp Việt Nam do TS. Ngô Thị Hải Yến làm chủ nhiệm, đã thực hiện đề tài “Nghiên cứu quy trình tổng hợp hoạt chất nhóm 5-nitro-imidazole” trong thời gian từ năm 2012-2016.

Một số kết quả nổi bật của đề tài:

– Đã nghiên cứu, tổng hợp thành công hợp chất trung gian 2-methyl-1H-imidazole từ nguyên liệu ban đầu là ethylenediamin và xây dựng quy mô sản xuất với khối lượng lớn, đáp ứng đủ nguyên liệu trung gian theo các thông số thực cho một mẻ sản xuất. Hiệu suất trung bình đạt 75%.

– Đã nghiên cứu, tổng hợp thành công hợp chất trung gian 2-methyl-1H-imidazole từ nguyên liệu đầu là glyoxane theo quy mô phòng thí nghiệm với các thông số tối ưu. Hiệu suất tối đa là 53%.

– Đã nghiên cứu, tổng hợp thành công và xây dựng quy trình tổng hợp metronidazole ở quy mô phòng thí nghiệm và áp dụng sản xuất ở quy mô Pilot 0,5kg/mẻ theo các thông số chính. Kết quả thu được 531 gam metronidazole tinh khiết trên một mẻ sản xuất.

– Đã nghiên cứu, tổng hợp thành công và xây dựng quy trình tổng hợp secnidazole ở quy mô phòng thí nghiệm và áp dụng sản xuất ở quy mô Pilot 0,5kg/mẻ theo các thông số chính. Kết quả thu được 533 gam secnidazole tinh khiết trên một mẻ sản xuất.

– Các sản phẩm metronidazole, secnidazole, tinidazole đã được thử độc tính cho thấy: LD50 của metronidazole là (12,125 ± 0,589) g mẫu thử/ kg chuột; của secnidazole là (8,098 ± 0,560) g mẫu thử/ kg chuột; của tinidazole là (8,306 ± 0,589) g mẫu thử/ kg chuột. Đối chiếu với bảng phân loại hóa chất theo độc tính cấp qua đường uống của Hệ thống phân loại hóa chất toàn cầu GHS mẫu thử metronidazole, secnidazole và tinidazole thuộc nhóm các chất không phân loại vì giá trị độc tính cấp LD50 > 5000 mg/kg chuột.

– Mẫu metronidazole, secnidazole, tinidazole thử độc bán trường diên cho thấy: ở các liều thử nghiệm trên thỏ các chỉ số sinh hóa đều bình thường, không nhận thấy sự bất thường và khác nhau về hình dạng bên ngoài, màu sắc của các tổ chức tim, gan, thận, phổi và hệ tiêu hóa khi quan sát đại thể cũng như cấu trúc của gan thận khi quan sát vi thể của thỏ giữa nhóm chứng và 2 nhóm thử.

Có thể tìm đọc toàn văn Báo cáo kết quả nghiên cứu của Đề tài (Mã số 13513) tại Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia.

N.P.D (NASATI)