Việt Nam là nước nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, có hệ thực vật rất đa dạng, phát triển quanh năm, trong đó có nhiều loài cây chứa các hợp chất có hoạt tính sinh học, có thể ứng dụng làm nguyên liệu cho ngành sản xuất hóa dược. Dược phẩm là thuốc có nguồn gốc tự nhiên chiếm một tỉ trọng đáng kể trong cơ cấu dược phẩm ở Việt Nam, các hợp chất tự nhiên đóng góp một vai trò chính yếu trong việc khám phá ra các loại thuốc chữa trị bệnh cho người. Có tới 80% các loại thuốc trước đây là bắt nguồn từ các hợp chất tự nhiên và khung cấu trúc của các hợp chất tự nhiên.Trên thế giới đã tạo ra nhiều loại thuốc mới và được đưa ra điều trị. Trong số đó, kể từ năm 1994 thì có khoảng 50% là có nguồn gốc tự nhiên.

Ở Việt Nam, các hoạt chất được khai thác, tinh chế thảo dược có thể kể tới artemesinin từ cây Thanh hao hoa vàng (Artemisia annua), rutin từ hoa hòe (Sophora japonica), berberin từ Vàng đằng (Coscinium usitatum), rotundin từ củ Bình vôi (Stephania rotunda), curcumin từ củ Nghệ vàng (Curcuma longa L.) và mangiferin từ lá xoài (Mangifera indica).

Virus Herpes là loại virus phổ biến gây bệnh cho người, có ít nhất 8 chủng loại của Herpes gây bệnh đã được biết. Các loại hoạt chất phổ biến sử dụng trong điều trị HSV như là acyclovir, ganciclovir, valaciclovir, penciclovir, famciclovir và vidarabine. Tuy nhiên, khả năng kháng thuốc của HSV và tác dụng phụ của thuốc là những vấn đề luôn luôn tồn tại, đòi hỏi nghiên cứu tiếp các loại thuốc mới và ít tác dụng hơn. Acyclovir có các tác dụng không mong muốn như buồn nôn, tiêu chảy, nhức đầu và ban da. Khi bôi ngoài có thể gây kích ứng, nóng rát nơi bôi thuốc. Foscarnet có thể độc với thận ở liều thấp, hạ canxi huyết, tăng creatinin huyết, gây buồn nôn, giảm bạch cầu, và viêm loét đường tiết liệu. Sử dụng các loại thuốc có nguồn gốc từ thảo dược có trên cơ sở cây thuốc dân gian được sử dụng lâu đời được cho là giải pháp hữu hiệu hiện nay.

Cây Thồm lồm (Polygonum chinense L.) được sử dụng khá phổ biến trong các bài thuốc dân gian để điều trị các bệnh thồm lồm ăn tai (chứng loét dái tai do nhiễm liên cầu khuẩn), chốc đầu, chốc mép, chốc da thường, eczema nhiễm khuẩn, chữa u nhọt, vết thương do rắn cắn, côn trùng và chó cắn. Hoạt tính kháng virus HSV-1 của dịch chiết tổng cây Thồm lồm (Polygonum chinense L.) lần đầu tiên được công bố bởi nghiên cứu của nhóm chúng tôi năm 2009 và cho đến nay vẫn chưa có công bố nào tương tự trên thế giới.

Xuất phát từ những lý do trên, nhóm tác giả do PGS. TS. Mai Ngọc Chúc thuộc Phòng TNTĐ Công nghệ lọc, hóa dầu đứng đầu đã đề xuất đề tài: “Nghiên cứu sản xuất chế phẩm kháng virus Herpes HSV từ cây Thồm lồm Polygonum chinense L.” nhằm nghiên cứu các hoạt chất chính, chất mang hoạt tính cao nhất và hiệu quả kháng HSV-1 của chế phẩm, tạo ra dạng chế phẩm kháng virus HSV.

Sau một thời gian thực hiện, dự án đã thu được một số kết quả nổi bật, bao gồm:

  1. Đã lựa chọn được vùng nguyên liệu Thồm lồm ở khu vực Như Xuân, Thanh Hóa và đã tìm được các điều kiện tối ưu của quy trình chiết nguyên liệu lá Thồm lồm: dung môi chiết etyl axetat; nhiệt độ chiết 77 độ C; thời gian chiết 8h; tỉ lệ dung môi/nguyên liệu 3/1 (L/kg).
  2. Đã phân lập được 10 hợp chất trong cây Thồm lồm và xác định được cấu trúc của chúng: quercetin, quercitrin, axit gallic, axit caffeic, emodin, ß-sitosterol, daucosterol, protocatechuic axit metyl este, metyl gallate, emodin và bán tổng hợp 1 chất axit triacetyl gallic.
  3. Đã nghiên cứu quy trình chế tạo chế phẩm kem bôi Thomlom PSVH có hiệu quả kháng virus HSV-1. Sản xuất 10.000 tuýp kem bôi da Thomlom PSVH. Quy trình chế tạo chế phẩm với quy mô 1000 tuýp/mẻ trong đó hàm lượng các thành phần trong cao như sau: – cao Thồm lồm tinh chế 10% – quercetin 0,002% – axit gallic 0,002% – axit caffeic 0,0006% – methyl paraben 0,0012% – propyl paraben 0,0004% – tá dược vừa đủ.
  4. Đã phân tích xác định được hàm lượng một số hợp chất có hoạt tính như PC1 (5,6 mg/g), PC3 (5,6 mg/g) và PC8 (0,78 mg/g) trong cao chiêt Thồm lồm tinh chế. Đã lập TCCS đối với cao chiết Thồm lồm bán tinh chế.
  5. Đã tiến hành thử hoạt tính với virus HSV-1.

– Dịch chiết etyl axetat có hoạt tính kháng virus HSV-1 tới 100% bằng với thuốc đối chứng acyclovir ở cùng nồng độ 50µg/ml .

– Bốn hợp chất quercetin, axit gallic, axit caffeic và emodin phân lập từ cao Thồm lồm có hoạt tính kháng virus HSV từ 31,3 tới 62,7 % với nồng độ thử nghiệm tại 100 µg/ml.

– Kem bôi Thomlom PSVH có khả năng ức chế virus so với acyclovir cao hơn gấp 5 lần tại nồng độ 0,5% và cao hơn gấp 30 lần tại nồng độ 1% trong thử nghiệm in vitro. Đối với thí nghiệm in vivo trên chuột, hiệu quả kháng virus của kem bôi Thomlom PSVH ở liều lượng 1% là tương đương với hiệu quả của mẫu đối chứng dương AVC 0,5%.

  1. Đã tiến hành thử nghiệm hoạt tính kháng viêm của kem bôi Thomlom PSVH trên chuột và nhận thấy kem bôi không ảnh hưởng tới khối lượng và các chỉ số sinh hóa, chỉ số máu của chuột và có tác dụng kháng viêm trên chuột.
  2. Đã đánh giá độc tính cấp và độc tính bán trường diễn của chế phẩm kem bôi Thomlom PSVH và nhận thấy chế phẩm an toàn ở nồng độ 5000mg/kg.
  3. Đã xây dựng tiêu chuẩn cơ sở của kem bôi Thomlom PSVH.
  4. Đã kiểm tra độ ổn định của kem bôi bằng phương pháp lão hóa cấp tốc thấy rằng kem bôi Thomlom PSVH đạt độ ổn định về chất lượng sau 24 tháng.
  5. Đã đăng 3 bài báo trên tạp chí trong nước (1- tạp chí Công nghiệp Hóa chất số 4 năm 2016 trang 32-38, 2- tạp chí Công nghiệp Hóa chất số 5 năm 2016 trang 32-36); 1 bài trong Tạp Chí Hóa học số 53(5e3) 2015-Kỉ niệm 60 năm thành lập Viện Hóa học Công nghiệp Việt Nam trang 25-28. Đào tạo 1 thạc sĩ tại Trường đại học Công nghiệp Hà Nội. Đã đăng ký 1 giải pháp hữu ích.

Có thể tìm đọc toàn văn báo cáo kết quả nghiên cứu (Mã số 14319/2017) tại Cục Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia.

P.K.L (NASATI)