(Tạp chí Khám phá) Thức ăn từ vi tảo cô đặc do các nhà khoa học trong nước sản xuất có chất lượng và giá trị dinh dưỡng phù hợp làm thức ăn cho nhiều loại giống thủy sản.

Vi tảo tươi sống có giá trị dinh dưỡng cao và là nguồn dinh dưỡng cần thiết cho rất nhiều đối tượng nuôi thủy hải sản, đặc biệt là ấu trùng nhuyễn thể hai mảnh vỏ. Theo ThS. Nguyễn Hữu Thanh, Trung tâm Quốc gia Giống hải sản Nam bộ, có khoảng 20 loài tảo đơn bào được sử dụng rộng rãi trong nuôi trồng thủy sản. Trong đó, Thalassiosira sp. đã được chứng minh là giống tảo có giá trị dinh dưỡng cao phù hợp cho nhiều đối tượng thủy sản, nhất là đối với ấu trùng tôm nói chung và tôm thẻ chân trắng nói riêng.

Tuy nhiên, ở Việt Nam, chưa có đơn vị nào sản xuất mà chỉ nhập khẩu với giá thành khá cao khoảng 50-200 USD/kg khối lượng khô. Do chưa có công nghệ nuôi sinh khối cũng như thu hoạch loài vi tảo này, hiện nay các trại sản xuất giống trong nước vẫn sử dụng Chaetoceros calcitrans làm nguồn thức ăn cho ấu trùng tôm thẻ.

Mới đây, trung tâm Quốc gia Giống hải sản Nam bộ đã xây dựng quy trình thành công quy trình nuôi và thu sinh khối vi tảo Thalassiosira sp. có chất lượng và giá trị dinh dưỡng phù hợp làm thức ăn trong sản xuất giống nhiều loại thủy sản. Đây là kết quả của nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và công nghệ cấp Thành phố “Xây dựng quy trình nuôi và thu sinh khối vi tảo Thalassiosira sp. để phục vụ việc nâng cao chất lượng giống tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus Vannamei) tại Cần Giờ, TP.HCM”.

Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở kế thừa kết quả thiết kế và xây dựng hệ thống nuôi sinh khối vi tảo ở quy mô pilot từ đề tài “Nghiên cứu công nghệ nuôi, thu sinh khối vi tảo Isochrysis galbana, Nannochloropsis oculata phục vụ sản xuất giống hải sản” của TS. Đặng Tố Vân Cầm. Mục tiêu là xây dựng được quy trình công nghệ nuôi sinh khối, thu hoạch và tạo sản phẩm vi tảo cô đặc Thalassiosira sp. ở dạng nhão và lỏng có thời gian bảo quản 1 đến 2 tuần, thay thế vi tảo tươi, đáp ứng kịp thời nhu cầu dinh dưỡng nhằm nâng cao chất lượng giống tôm thẻ chân trắng.

Hệ thống ống nuôi tảo quy mô sản xuất 1.000 lít
Theo đó, vi tảo được nuôi thâm canh trong hệ thống ống khép kín (dung tích 1.000 lít), làm từ ống nhựa acrylic trong suốt (Ф60 mm, chiều dày 2 mm, chiều dài 2 m) đặt ngoài trời, phủ lưới che để hạn chế ánh sáng chiếu trực tiếp, nhiệt độ nước nuôi ổn định khoảng 29-30.50C.

Khi sinh khối tảo gần đạt cực đại (khoảng 3 – 4 ngày nuôi), tiến hành bổ sung CO2 để ổn định pH trong khoảng 8,3-8,6 và hạn chế lượng khí oxy tích lũy. Nuôi vào ngày thứ 5, sinh khối vi tảo Thalassiosira sp. từ hệ thống nuôi được thu hoạch bằng phương pháp ly tâm và cô đặc sản phẩm ở dạng nhão và dạng lỏng đậm đặc.

Sản phẩm không bị nhiễm khuẩn, mùi bình thường, giá trị dinh dưỡng tương đương tảo tươi trong khoảng thời gian bảo quản (từ 1-4 tuần). Thời gian thu hoạch tảo có thể kéo dài từ 6 – 8 ngày, kể từ ngày thu hoạch đầu tiên.

Đây là hệ thống nuôi liên tục, kín quang, phản ứng sinh học – một hệ thống tiên tiến đang được nhiều nước trên thế giới sử dụng để sản xuất sinh khối nhiều loài vi tảo phục vụ nuôi trồng thủy sản.

Kết quả sử dụng trong ương ấu trùng tôm và nghêu cho thấy, tảo cô đặc Thalassiosira sp. dạng nhão hay lỏng hoàn toàn có thể thay thế tảo tươi và tảo khô spirulina trong ương ấu trùng tôm, thay thế tảo tươi trong ương ấu trùng nghêu giai đoạn trôi nổi đến đáp đáy.

Thu hoạch vi tảo bằng phương pháp ly tâm

Theo ThS. Nguyễn Hữu Thanh, sản phẩm đã được một số cơ sở sản xuất giống dùng thử nghiệm, bước đầu cho thấy hiệu quả trong việc chủ động nguồn tảo làm thức ăn tự nhiên, góp phần làm tăng tỷ lệ sống và chất lượng con giống, giảm chi phí sản xuất. Các sản phẩm có thể tiến tới sản xuất quy mô lớn và thương mại hóa, giá thành không cao hơn sản phẩm nước ngoài.

Dự kiến, tảo cô đặc Thalassiosira sp. dạng nhão có giá khoảng 2 triệu đồng/kg, dạng lỏng 200 ngàn đồng/lít. Hiện tại, nhóm tác giả tiến hành các bước hoàn thiện công nghệ và liên kết với một số doanh nghiệp tư nhân để sản xuất khoảng 30 – 50 lít/tháng sản phẩm dạng lỏng phục vụ cho sản xuất giống tôm, đặc biệt là trong mùa nghịch, thời tiết không thuận lợi.

Kết quả nghiên cứu nói trên đã được Sở KH&CN TPHCM nghiệm thu năm 2019 và giới thiệu trên Tạp chí Nghề cá Sông Cửu Long, Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển.